Sau hơn 2 giờ đọc bản luận tội, lúc 10h30 sáng nay, HĐXX đã tuyên: - Đinh La Thăng (nguyên Chủ tịch HĐTV PVN) 13 năm tù về tội Cố ý làm trái quy định nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng;
- Trịnh Xuân Thanh (nguyên Chủ tịch HĐQT PVC) 14 năm tù về tội Cố ý làm trái quy định nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng, chung thân về tội Tham ô tài sản. Tổng mức án phải lĩnh là chung thân.
Các bị cáo: Phùng Đình Thực, Nguyễn Quốc Khánh, Nguyễn Xuân Sơn cùng lĩnh 9 năm tù về tội Cố ý làm trái quy định nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng... Tại tòa, cơ bản các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, tuy nhiên một số bị cáo phủ nhận cáo buộc như luận tội của VKS. Căn cứ lời khai các bị cáo, lời khai nguyên đơn dân sự, lời người liên quan và vật chứng và kết quả giám định, có đủ cơ sở kết luận hành vi Cố ý làm trái của các bị cáo.
Về việc cố ý làm trái trong việc lựa chọn nhà thầu, năm 2010, do đầu tư dàn trải không hiệu quả nên tài chính PVC gặp khó khăn. Sau khi gánh thêm 5 dự án thua lỗ do tập đoàn chỉ định, năm 2011 PVC mất cân đối đầu tư gần 1.000 tỷ đồng. Biết rõ PVC gặp khó khăn về tài chính, chưa có kinh nghiệm làm tổng thầu dự án nhưng bị cáo Đinh La Thăng vẫn giao PVC làm tổng thầu hợp đồng EPC theo hình thức chỉ định thầu. Dù hồ sơ thiếu cơ sở pháp lý, nhưng bị cáo Thăng vẫn chỉ đạo cấp dưới ký hợp đồng EPC số 33 và hợp đồng chuyển đổi chủ thể 4194. Hợp đồng EPC số 33 được lập ký không đúng quy định, không nhiều nội dung quan trọng nhưng PVN và PVPower vẫn ký lại hợp đồng chuyển đổi chủ đầu tư dự án, trong đó PVN kế thừa mọi trách nhiệm theo hợp đồng số 33. Do đó, việc tạm ứng hơn 6,6 triệu USD và 1.300 tỷ đồng cho PVC căn cứ 2 hợp đồng số 33 và 4194 là trái quy định pháp luật. Sau khi PVC nhận được tiền tạm ứng, Trịnh Xuân Thanh và cấp dưới dùng 1.100 tỷ đồng vào mục đích khác, không đưa vào dự án nhiệt điện Thái Bình 2 như trả ngân hàng 760 tỷ, góp vốn 110 tỷ… HĐXX nhận thấy hội đồng giám định đã tuân thủ quy định pháp luật, qua đó làm rõ số tiền thiệt hại là 119 tỷ.
Ngoài ra, do PVC không có năng lực làm tổng thầu nên dự án đã chậm dự án 18 tháng, làm phát sinh lãi các khoản vay, máy móc đắp chiếu hết thiệt hại bảo hành... HĐXX cho rằng những tổn thất này không thể thống kê trong quá trình điều tra. HĐXX cũng nhận định PVC không thể tùy tiện chi trái phép tiền tạm ứng, khoản triền này phải tính thiệt hại khi dùng sai. Việc công ty hoàn trả chỉ là tình tiết giảm nhẹ. “Cách tính thiệt hại như giám định là có lợi cho bị cáo”, thẩm phán Trương Việt Toàn nói sẽ kiến nghị CQĐT tiếp tục điều tra làm rõ những thiệt hại này.
Về tội Cố ý làm trái của bị cáo Đinh La Thăng, căn cứ lời khai của bị cáo, HĐXX thấy rằng vào ngày 15/10/2010, HĐQT Tập đoàn PVN đã ra nghị quyết phê duyệt phương án thành lập liên doanh tổng thầu EPC nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2 trong đó có nội dung: PVC là thành viên đứng đầu liên doanh, nhà thầu nước ngoài tham gia lựa chọn theo hình thức đấu thầu thực tế. Như vậy nghị quyết của HĐTV PVN đã nêu rất rõ, PVC phải thực hiện liên doanh tổng thầu với các nhà thầu nước ngoài đủ năng lực và kinh nghiệm. Tuy nhiên lúc đó bị cáo Đinh La Thăng đã chỉ định PVC là tổng thầu duy nhất, EPC dự án Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2, vi phạm nghị quyết của HĐTV của PVN, điều lệ PVN. Lời khai bị cáo thừa nhận việc này do sức ép tiến độ, nên có sai phạm trong quy trình chỉ định thầu PVC khi không qua HĐTV. Bị cáo khai do nôn nóng, sức ép công việc nên bị cáo Thăng đã chỉ đạo ký HĐ 33 trái quy định. Tại tòa, Nguyễn Quốc Khánh khai chỉ đạo việc nhanh chóng ký hợp đồng EPC, do bị cáo Thăng và Phùng Đình Thực chỉ đạo ký cho kịp tiến độ trước ngày 28/2/2011. Do vậy có cơ sở khẳng định bị cáo Đinh La Thăng được báo cáo đến trung tuần tháng 6/2011 mới có đủ hồ sơ EPC để ký, nhưng vẫn chỉ định cấp dưới ký trước ngày 28/2/2011, trái quy định. Hợp đồng 33 cũng thiếu nhiều nội dung quan trọng, vi phạm nghị định 48 của Chính phủ về hợp đồng trong hoạt động xây dựng. Tại thời điểm PVC được chỉ định thầu trái pháp luật, ký hợp đồng 33 là doanh nghiệp đang thâm hụt tài chính, không đủ kinh nghiệm thực hiện các dự án lớn. Thời điểm đó PVC được PVN chỉ định thầu một số dự án như: Dự án Ethanol Dung Quất, Ethanol Phú Thọ… cho đến nay xác định thất thoát, thua lỗ hàng nghìn tỷ đồng. Mỗi dự án như vậy có thể trở thành một vụ án, lãnh đạo PVC đang phải đối mặt với nguy cơ điều tra, truy tố, xét xử trong các vụ án hình sự khác.
Theo HĐXX, quyết định chỉ định thầu và chuyển tiền quyết liệt, vội vã chi doanh nghiệp không đủ năng lực đã trái pháp luật, trái chỉ đạo của Chính phủ. Việc này gây nghi ngờ trong nhân dân trong tính minh bạch của chủ trương, tính thanh liêm của cán bộ khi thực hiện. Bị cáo Đinh La Thăng biết rõ PVC khó khăn nhưng vẫn chỉ định PVC tổng thầu thực hiện dự án Nhiệt điện Thái Bình 2. Bị cáo là người đứng đầu PVN nhưng vẫn có hành vi chỉ định thầu cho PVC, khi biết rõ PVC không đủ năng lực. Hành vi của bị cáo vi phạm quy định pháp luật, vi phạm luật đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng. Đối chiếu với các quy định của Bộ luật hình sự, hành vi của bị cáo Đinh La Thăng thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội Cố ý làm trái, không phải tội danh khác như bị cáo và luật sư nêu. HĐXX ghi nhận quá trình cống hiến của bị cáo Đinh La Thăng như tình tiết giảm nhẹ được quy định Bộ luật hình sự, song cần phải nghiêm minh, làm gương cho kẻ khác. Về Trịnh Xuân Thanh, HĐXX cho biết tại tòa, bị cáo này thừa nhận biết PVC không đủ năng lực, kinh nghiệm làm tổng thầu, hồ sơ chưa đầy đủ nhưng vẫn chỉ đạo PVC ký kết hợp đồng EPC. Ngoài ra, bị cáo còn thừa nhận đã đôn đốc ban giám đốc tạm ứng tiền, còn HĐQT ra trương góp vốn vào công ty con. HĐXX nhận thấy Trịnh Xuân Thanh thừa nhận hợp đồng EPC số 33 được ký khi hồ sơ không đầy đủ.
Ngoài ra, sau khi ký, ban giám đốc PVC đã có tờ trình đề nghị HĐQT phê duyệt nội dung. Bị cáo Thanh đã ký phiếu lấy ý kiến phê duyệt nội dung thực hiện gói thầu. Hành vi của Trịnh Xuân Thanh thỏa mãn dấu hiệu tố Cố ý làm trái. Trịnh Xuân Thanh, biết rõ PVC không đủ năng lực tài chính, năng lực thực hiện dự án. Khi nhận tiền tạm ứng thực hiện dự án đã chỉ đạo cấp dưới sử dụng không đúng mục đích, gây thiệt hại lớn cho Nhà nước. Hành vi của bị cáo cũng gây cho hàng loạt các bị cáo dưới quyền vướng lao lý. Tại cơ quan điều tra và tại tòa bị cáo Thăng, Thanh và luật sư cho rằng bị cáo không phạm tội, phạm tội khác. Với chứng cứ và lời khai bị cáo, tài tài liệu trong hồ sơ, việc truy tố bị cáo tội Cố ý là có căn cứ, đúng người, đứng tội, đúng pháp luật. Về hành vi Tham ô tài sản, bị cáo Trịnh Xuân Thanh không thừa nhận chỉ đạo cấp dưới lập hồ sơ khống, không chiếm hưởng 4 tỷ. Các luật sư bào chữa cho bị cáo này cho rằng không căn cứ buộc tội thân chủ của họ như kết luận như cao trạng. Tuy nhiên, HĐXX xét thấy từ lời khai Vũ Đức Thuận, Nguyễn Anh Minh và Bùi Mạnh Hiển có thể xác định Trịnh Xuân Thanh đã chỉ đạo cấp dưới lập hồ sơ khống để chiếm đoạt tài sản.
Lời khai này phù hợp với khai nhận của các bị cáo khác và tài liệu cơ quan điều tra thu thập, trong đó có chữ ký của Trịnh Xuân Thanh trong văn bản lấy ý kiến đã bị xóa bằng bút xóa. Về việc Trịnh Xuân Thanh chiếm hưởng 4 tỷ đồng, các bị cáo Nguyễn Anh Minh, Vũ Đức Thuận, Lương Văn Hòa khai theo chỉ đạo của Thanh đã chuẩn bị 5 tỷ tiêu Tết. Ngày 13/1/2012, Hòa rút 5 tỷ chuyển cho lái xe của Minh. Sau đó, lái xe giữ lại 1 tỷ cho Nguyễn Anh Minh và chuyển 4 cho Thanh thông qua lái xe riêng. HĐXX cho rằng có đủ cơ sở kết luận Thanh là người đề ra chủ trương, chiếm hưởng 4 tỷ đồng nên không chấp nhận ý kiến của bị cáo và luật sư bào chữa. Về khoản 1,5 tỷ đồng Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm sử dụng chung, HĐXX cho rằng hành vi chiếm hưởng số tiền đã hoàn thành, việc chi tiêu do các bị cáo quyết định.