12 tháng 10, 2019

Bãi Tư Chính chưa bao giờ là khu vực tranh chấp chủ quyền

Bãi Tư Chính nằm trên thềm lục địa Việt Nam, đã được Việt Nam sử dụng và khai thác đặc quyền kinh tế một cách ổn định và chưa bao giờ là khu vực tranh chấp chủ quyền.


PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, nguyên Phó tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, phân tích về cấu trúc địa chất và địa lý của Biển Đông nói chung và bãi Tư Chính nói riêng.

Kho báu của Biển Đông

Theo đó, Biển Đông có hai yếu tố, quan trọng nhất là thềm lục địa. Về góc độ này, Việt Nam là quốc gia có thềm lục địa tự nhiên nhiều nhất.

Ngoài thềm lục địa thì có cấu trúc nước sâu. Đây là một đặc trưng, được hình thành từ 240 triệu năm về trước khi tách giãn hình thành nên Biển Đông. Trong tổng số 7 quần đảo lớn liên quan đến san hô ở khu vực Biển Đông thì có 5 quần đảo nằm trong cấu trúc nước sâu.

Tất cả các quần đảo này 100% là ốc đảo san hô và được hình thành, kế thừa trên nền núi lửa cổ của vỏ đại dương cách đây 240 triệu năm. Trong 5 quần đảo trong cấu trúc nước sâu nói trên có 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa với 100% là san hô.

“Với Biển Đông, có san hô thì có cá, có cá thì có nghề cá, có nghề cá thì có ngư dân. Cho nên 5 quần đảo này quyết định rất lớn đến nghề cá của tất cả các nước trong vùng biển. Đấy là một đặc trưng rất đặc biệt. Cả 5 quần đảo có vị trí địa chiến lược hết sức quan trọng, trong đó người ta coi nếu ai kiểm soát được Hoàng Sa, Trường Sa thì sẽ kiểm soát được toàn bộ Biển Đông”, ông nhấn mạnh.

Còn trên bề mặt, 90% hệ thống dòng chảy trong Biển Đông là dòng chảy theo mùa. Mùa hè thì phân kỳ, mùa đông thì hội tụ. Chính đặc điểm phân kỳ, hội tụ này cho thấy, bất kỳ tác động gì xảy ra ở vị trí nào của Biển Đông, nhất là khu vực giữa vùng biển thuộc vùng nước sâu đều ảnh hưởng đến phần còn lại của Biển Đông.

Chính cấu trúc nước sâu giúp cho Biển Đông ngoài việc rất giàu tiềm năng dầu khí ở thềm lục địa, thì còn là nơi thu hút và sở hữu tất cả tài nguyên khác kể cả sinh vật, phi sinh vật. Có thể ví rằng, cấu trúc nước sâu là một kho báu của Biển Đông.

“Người ta vẽ một đường lưỡi bò phi pháp ôm trọn lấy toàn bộ kho báu ở dưới đáy Biển Đông ở chính khu vực giàu có nhất và đúng trục của cấu trúc nước sâu. Đó là trục Đông Bắc – Tây Nam và khi về đến ngang chỗ Đà Nẵng thì chảy song song với bờ biển nam”, PGS giải thích.

Vị trí bãi Tư Chính

“Bãi Tư Chính cùng các bãi ngầm và đá ngầm ở khu vực này là một phần không thể tách rời của thềm lục địa Việt Nam về phía Đông Nam, ngăn cách với quần đảo Trường Sa của Việt Nam bằng một rãnh sâu nên theo Công ước UNCLOS 1982, và hoàn toàn không thuộc quần đảo Trường Sa”, PGS Nguyễn Chu Hồi nhấn mạnh.

Theo ông, về mặt địa chất thì vùng Tư Chính thuộc thềm lục địa Việt Nam và không phải là một bộ phận của quần đảo Trường Sa. Bãi Tư Chính của Việt Nam được các luật sư công pháp quốc tế khẳng định hoàn toàn không nằm trong khu vực chồng lấn chủ quyền. Cho nên, bãi Tư Chính chưa hề và chưa bao giờ là khu vực tranh chấp chủ quyền.

Bãi Tư Chính ở trên thềm lục địa Việt Nam, đã được Việt Nam sử dụng và khai thác đặc quyền kinh tế một cách ổn định và từ lâu, chứ không phải bây giờ mới có, mới xuất hiện tuyên bố chủ quyền, càng không phải khu vực đang có tranh chấp trên biển. GS Hồi dẫn giải, bản đồ của hoàng gia Anh vào năm 2001 sử dụng kỹ thuật chụp nổi bằng tia hồng ngoại đáy Biển Đông cho thấy rất rõ những đặc trưng cấu trúc khu vực bãi Tư Chính.

PGS Chu Hồi nhấn mạnh, từ trước đến nay, 5 quần đảo của cấu trúc nước sâu Biển Đông luôn được các tài liệu chính thống của Ủy ban Thủy đạo quốc tế LHQ và các tài liệu địa lý quốc tế công bố về mặt địa lý. Chưa bao giờ và cũng chưa có một học giả nào quan niệm rằng Trường Sa bao gồm cả cụm Tư Chính.

Cấu trúc lợi ích của Biển Đông

Theo ông Chu Hồi, bởi những đặc trưng của Biển Đông nêu trên nên từ lâu Biển Đông trở thành mối quan tâm của các nước, trong đó có các nước lớn. Và cũng trở thành nơi có lợi ích đan xen trên nhiều phương diện.

Chính vì lợi ích đa phương này mà Biển Đông khá phức tạp về mặt tranh chấp, liên quan tới các vấn đề tự do hàng không, hàng hải, vấn đề chủ quyền và yêu sách chủ quyền đơn phương…

“Nếu bất kỳ một yêu sách nào mà không dựa trên quy định của Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS) 1982 thì đều có thể dễ dàng hướng đến việc không thừa nhận trong Biển Đông có vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển (tức vùng 200 hải lý) và không thừa nhận tồn tại vùng ngoài 200 hải lý (nếu vẽ nghiêm túc theo đúng UNCLOS). Khái niệm này được quốc tế gọi là vùng biển ngoài quyền tài phán quốc gia và theo luật biển Việt Nam năm 2012 thì gọi là vùng biển quốc tế”, ông phân tích.

Khi không công nhận như vậy thì đương nhiên sẽ chạm vào lợi ích của nhiều nước. Và bị cộng đồng quốc tế phản ứng, nhất là những nước trong khu vực Biển Đông và các quốc gia liên quan đến hoạt động thương mại trên Biển Đông.

Hành vi xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam của tàu khảo sát địa chấn Hải Dương 8 và nhóm tàu hộ tống Trung Quốc khiến quốc tế phản đối mạnh mẽ với nhiều hình thức, kể cả thông qua nghị viện hay bộ máy quản lý hành chính như Mỹ, EU, Nhật Bản…

“Chúng ta thấy cả phản ứng thông qua các diễn đàn quốc tế của LHQ hay ASEAN và cộng đồng châu Âu… Rồi phản ứng từ các học giả khác nhau, tức là bằng đủ mặt trận. Tôi thấy rằng, lần này phản ứng quốc tế nhiều hơn và tập trung hơn. Tất cả đều nêu sự quan ngại và phản đối những hành động phi lý và vi phạm, không tôn trọng UNCLOS trong quá trình giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông và những sự việc cụ thể đang diễn ra”, PGS Chu Hồi nhận định.

Theo ông, cộng đồng quốc tế rất ủng hộ tiếng nói chính nghĩa của Việt Nam và thái độ của Việt Nam trong nỗ lực kiên trì theo đuổi giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét